Trang chủ > Quê hương An Phú > Expendable Elite - Chương 1 (đoạn sau)
Expendable Elite - Chương 1 (đoạn sau)9-03-2015, 14:38. Người viết: hungtuan102 |
Nhân vật mà mỗi người chúng tôi chờ đợi nãy giờ để hỏi mình sẽ đi đâu, giờ đang đứng trước mặt, mỉm cười và cầm 1 sấp hồ sơ lý lịch trên tay. Mỗi Đại úy LLDB đều xứng đáng được quyền hi vọng chỉ huy một phân đội A, tôi cũng không ngoại lệ. Ngay lúc ấy tôi nghĩ số phận của mình đã an bài, ở lại Nha Trang và làm trong Trung tâm hỗ trợ hậu cần, bởi kinh nghiệm tôi đã có trong hậu cần. Ở tuổi 32, tôi là Đại úy già nhất trong nhóm, khá ngạc nhiên khi ông ta gọi lên phía trước, trao cho tôi một xấp chỉ thì và báo rằng tôi sẽ đi Cần Thơ, vùng 4 chiến thuật. Ông ta bảo tôi trình báo với Trung tá Tuttle, chỉ huy trưởng của bộ chỉ huy "C". Ông ta chỉ tôi đi về phía Trung tâm điều hành bay để hỏi chuyến bay sớm nhất tới Cần Thơ. Khi đi ra khỏi phòng họp, tôi nghe ông ta nói với những chỉ huy còn lại, họ có thể chỉ huy 1 phân đội A nếu họ có kinh nghiệm chiến đấu thực tế. Tôi từng là Trung úy Công binh chiến đấu, tham gia những ngày cuối của cuộc chiến Triều Tiên. Tôi nhận thức được rằng giắc mơ của minh đã thành hiện thực, trở thành chỉ huy 1 phân đội A. Chuyến bay tới Cần Thơ trên chiếc máy Caribou của Không quân chỉ cất cánh ít phút sau buổi ăn trưa, ngày Nô-el. 4 người chúng tôi ngồi ngay phía sau buồng lái, hướng mặt về phía đống hàng hóa chở đi Saigon và Cần Thơ. 3 người đồng đồi kia đều là Hạ sĩ LLDB, đang trên đường trở về Mỹ, nôn nóng kể cho tôi nghe những gì họ đã trãi qua. Tôi được thưởng thức những trận đánh, chiến thắng và bi kịch mà từng người bọn họ vượt qua. Họ hãnh diện cho tôi xem những bức ảnh mà họ đã chiến đấu bên cạnh các đồng sự không chính quy, nổi bật với chiến thắng, nhưng cũng đổ máu trong những lần chiến bại. Một Hạ sĩ nói với giọng mỉa mai: "Việt Cộng - chiến binh bóng ma", những người bất ngờ xuất hiện, như từ trong không khí đi ra, ở những nơi và những lúc ít ngờ tới nhất, rồi sau đó biến mất vào trong những khu rừng. Anh ta quen thuộc với khu vực, nơi anh ta chờ đợi để phục kích cuộc đánh trả. Anh ta nhanh chóng nhận ra rằng đội của mình đã sẵn sàng đối đầu với đối phương, khóa huấn luyện về chiến tranh du kích ở Smoke Bomb Hill đã được đền đáp. Anh ta nhìn tôi, cười và nói: - "Đại Úy", chúng tôi đã xong việc và cho những tên Cộng đó biết mùi. Đại Úy, phát âm nghe như "Die We" (chúng ta tiêu đời). Tôi nghĩ nên làm quen với nó. Biểu cảm bằng tiếng Việt, giờ đã thành bản năng của những người này, họ học trong lúc làm việc và chiến đấu cùng người dân địa phương. Tôi lắng nghe kỹ lưỡng, ráng ghi nhớ cho hết. Tôi cố bước đi đúng hướng trên hành trình mà tôi sẽ đi. Cả thảy bọn họ đều bày tỏ tiếc nối rằng đa số lính Mỹ đến VN đều là lính thông thường, thiếu huấn luyện. Do đó họ sẽ ít có cơ hội chống chọi lại đối thủ biết đánh du kích, có trang bị khí giới và kinh nghiệm chiến đấu. Cuộc trò chuyện ngừng lại khi chúng tôi đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Bọn họ háo hức đi nhanh xuống đất. Từ Saigon họ sẽ lên chuyến bay khác, bước cuối trong chuyến hành trình trở lại quê nhà Hoa Kỳ. Chúng tôi đáp ở cổng hàng không, các anh Trung sĩ xuống máy bay, xe kéo đến bốc dỡ hàng hóa. Không đầy 20 phút sau, chúng tôi lại cất cánh hướng về phía Nam, phía trên những cánh đồng lúa vùng đồng bằng, hướng về Cần Thơ. Lúc xế chiều, chúng tôi hạ xuống và lượn 1 vòng băng ngang con sông lớn Mekong (sông Hậu) trước khi đáp xuống bãi hạ cánh của bộ chỉ huy C. Chúng tôi đến điểm dừng. Ngay khi hàng hóa hậu cần được dỡ xuống, không khí nóng và ẩm ướt tràn vào. Tôi lấy hành lý và đi xuống con đường láng nhựa, được chào đón bởi Thượng sĩ của bộ chỉ huy C. Một người lớn con, lực lưỡng, cánh tay rắn chắc. Anh ta chộp lấy túi hành lý của tôi nhẹ nhạng, như thế nó chỉ chứa có lông vũ bên trong, sãi bước qua cổng chính, dẫn tôi đi ngang phòng ăn và đi vào trại lính. Với cánh tay còn lại, anh ta chỉ về hướng căn nhà gỗ, hai tầng, lợp tôn. - Đó là Tổng hành dinh, Đại úy. Văn phòng của Trung tá Tuttle ở trên lầu, phòng bản đồ và phòng họp nằm ngoài cửa phòng ông ấy. "Ông già" sẽ gặp anh đúng vào lúc 8:00. Anh ta nói lớn. Sau khi dẫn tôi qua khỏi cánh cửa ở hướng Bắc, phía cuối doanh trại, anh ta cho tôi coi 1 cái phòng nhỏ rồi bỏ hành lý của tôi vào đó. Phòng không có cửa, chỉ có miếng rèm bằng tre. Đi xuống phía dưới hành lang, anh ta chỉ tôi nhà tắm và nhà vệ sinh. Anh ta cho tôi biết là nhà ăn phục vụ lúc 7 giờ, chỉ có vài món ngon, gợi ý tôi nên chen lấn nếu cần. Anh ta bỏ đi, ngập ngừng 1 lúc, quay mặt lại hỏi tôi, có phải tôi là "Dan Nguy Hiểm" không? Vì anh ta nghe được từ Thượng sĩ cấp trên. Tôi không trả lời, chỉ cười trừ. Anh ta gãi đầu, cười toe toét, bỏ đi nhẹ nhàng, lẩm bẩm gì đó. Căn cứ không quân Cần Thơ Tiếng súng và pháo nổ ở xa xa có thể nghe rõ. Nhưng bầu không khí xung quanh doanh trại cứ như đang mùa lễ hội. Tôi nhớ rồi, hôm đó đúng ngay đêm Nô-el (Giáng sinh). Tôi gấp gáp đi tới nhà ăn sao cho đúng giờ, và sau đó được thưởng thức món sandwich thịt bò nướng, khoai tây nghiền, đậu và cà phê đen. Khẩu vị rất hợp, làm tôi nhớ tới các món ăn ở nhà hàng Howard Johnson. Ở Mỹ, hễ mỗi lần đi đâu về nhà, tôi với Kate đều ráng ghé vào nhà hàng đó. Tôi ghiền món sandwich thịt bò hoặc hà nuớng nóng hổi của họ, hiếm khi gọi món nào khác trừ điểm tâm. Giáng sinh được trang trí với một cây thông cao 2m làm tôi thấy nhớ quê nhà. Công việc ở nhà mf tôi thích là đốn cây. Nhà bếp và phòng ăn ở đây lớn gấp đôi các quán bar hoặc phòng game của LLDB ở Mỹ. Tôi quyết định làm 1 giấc thật ngon trước khi gặp Trung tá Tuttle sáng mai. Uống xong 3 ly cà phê, tôi trở về phòng, lên giường, tấn mùng vô nếp chiếc chiếu mỏng và ngáy ngủ. Tôi thức lúc 7:00 sáng ngày Nô-el, mình mẩy ướt sũng mồ hôi, thấm ướt cả tấm vải lót và cái gối bông. Trời nóng nực và độ ẩm cao làm cơ thể tôi vật vã. Đầu óc tôi giờ đã quen với văn hóa và múi giờ sau vài ngày từ Mỹ đến đây. Lúc này cơ thể tôi đang cố bắt kịp trí óc. Tôi được lệnh đến đây. Tôi đến nơi cần hoạt động và tôi nghe những người đến trước kể rằng, người VN cảm kích khi chúng tôi tình nguyện đến giúp họ. Linh động, có khả năng thích nghi với hoàn cảnh bằng đầu óc cởi mởi, tinh thần quyết tâm là một phần của một chiến sĩ đặc công (Green Baret) giỏi. Cái bóng đèn tròn treo lủng lẳng trên mái nhà, gần chỗ tôi nằm bật sáng làm tôi tỉnh giấc. Một giọng nói cộc lốc của viên Trung sĩ gọi tôi đi gặp Trung tá Tuttle. - Ông ấy muốn cùng ăn sáng với anh trong 30 phút tới, Đại úy. Anh ta hét lớn và bỏ đi, không thèm đợi tôi nói gì. - Chúc mừng Giáng sinh, Trung sĩ. Tôi nói vọng theo khi anh ta đã ra khỏi dãy phòng và trở lại bàn làm việc. Chắc anh ta không có hứng thú với lễ Giáng sinh. Trung tá Tuttle chào tôi khi tôi mới bước vào phòng. Tôi chào lại và nhìn xung quanh. Không thấy bóng ai khác ngoài người đầu bếp. Tôi thấy hơi lạ cho đến khi thấy dòng chữ dán trên bảng: "Buổi ăn sáng Giáng sinh: 9:00". Tôi hiểu ra Đại tá mốn nó chuyện riêng, mặt đối mặt với tôi. Chúng tôi bắt tay. Tôi ngồi xuống, một cô gái phục vụ trẻ, người Việt, khá xinh, mặc bộ váy màu trắng, đeo tạp dề, đặt một tách cà phê nóng lên bàn và bày món ăn: thịt heo, 2 quả trứng, bánh pancakes và bánh mì. Tôi đói. Đại tá nhường tôi và làm 1 ngum cà phê. Mùi thịt heo nướng tỏa khắp phòng. Tôi nghiền ngẫm 1 lúc về người đàn ông mạnh mẽ, được mọi người kể lại rằng ông ta là một chỉ huy giỏi trên chiến trường. Ông ta gầy, ngồi thẳng lương, có vẻ nghiêm khắc, đầu thì hói như trái bóng bàn. Thấp hơn tôi chỡ 1 inch, gầy hơn, ánh mắt sắc xảo và thể hiện mạnh mẽ. Không chút nghi ngờ việc ông ta e ngại ở đây. Ông ta cho tôi thấy con người đó ngay khi cô gái phục vụ đi chỗ khác. Hình như tôi cũng có chút danh tiếng. Ông ta nói mình đã phục vụ trong LLDB từ năm 1953, và ngạc nhiên là chúng tôi chưa từng gặp nhau. Ông ta cho tôi biết là một người bạn cũ của ông ta, Đại tá Patten, cũng là chỉ huy của tôi, đã kể về hoạt động của tôi ở Trung đoàn số 6 ở Fort Bragg. - Ông ấy nói rằng anh cứng rắn, làm tới cùng để xong việc, bất kể trở ngại nào. Vừa nói xong, ông ta xích sát vô bàn, nói hạ giọng lại, cười lớn và nói rằng Đại tá Patten đã nói thẳng với ông ta rằng tôi rất ranh mãnh khi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Lúc đó tôi hiểu rằng, ông ta đã thảo luận với Đại tá Patten về phướng pháp làm việc của tôi.Trong hồ sơ đánh giá về tôi, lúc đó là Sĩ quan trưởng bộ phận Hậu cần, Đại tá Patten viết chính các những gì đã nói nãy giờ. Ông còn ghi thêm câu: "rất thích hợp tham gia Chiến tranh không quy ước". Điềm nhiên nhìn thẳng vào mắt tôi, ông ta nói đã đọc hết hồ sơ và hiểu về tôi, ưu khuyết điểm, công việc phù hợp có thể giao. Ông ta cần một người như tôi để chỉ huy phân đội A-424 ở Trại Dân Nam, phía Tây Bắc Cần Thơ, ở quận An Phú. - Tôi sẽ cho anh vào vị trí ngay sau khi chúng ta họp xong sau buổi ăn sáng. Tiếng lốc cốc của muỗng nĩa trên bào báo hiệu cuộc nói chuyện kết thúc. Chúng tôi ăn trong êm lặng, tôi nhớ lại những ngày phụ vụ dưới trướng Đại tá Patten ở Trung đoàn 6. Rất khó khăn để phục vụ hậu cần cho các Đội huấn luyện di động khi họ được triển khai ở nước ngoài, nhiệm vụ bí mật và khó xác định vị trí, nhận dạng. Sử dụng hệ thống Bưu chính quốc tế, Đại sứ quán hoặc giao liên của CIA để chuyển hàng quan trọng như đạn dược và chất nổ, chúng tôi phải ghi lên ngoài hộp những thứ liên quan, vô hại hoặc có hại, như đồ hộp, quần áo may bị lỗi,... để được gửi đi. Cũng có những lần giữa năm 1964, tôi thấy sôi nổi và bị thách thức khi chỉ huy một nhóm 6 người LLDB trong các nhiệm vụ "Tối mật" diễn ra bất ngờ. Tôi trở lại với hiện tại khi Trung tá Tuttle ăn xong, lau miệng và hỏi: - Đang nghĩ về quê nhà hả? - Không thưa ngài, chỉ là một nơi khác thôi. Tôi trả lời. Chúng tôi tráng miệng bằng cà phê rồi ông ta dẫn tôi ra khỏi phòng ăn, đến văn phòng của ông ta. Khi chúng tôi vào văn phòng, ông ta nói với viên Trung sĩ trực ban rằng ông ta muốn hoàn toàn được riêng tư, không được làm phiền. Viên Trung sĩ đóng tập hồ sơ, bước ra ngoài và khép cửa lại. Một tấm bản đồ nhiều màu, ghi vị trí phe ta và đối phương, một cây gậy đầu bịt kim loại, mấy tấm ảnh chụp tử trên không, ông Đại tá tóm tắt tình hình chiến thuật trong và xung quanh quận An Phú. Bản đồ quận An Phú tỉnh Châu Đốc 1960-1975 Bắt đầu với FOB Phú Hiệp (Forward Operations Base - Căn cứ hành quân tiền phương) cách 7km phía Đông Bắc trại Dân Nam và cách biên giới Campuchia 2km xuống phía Nam (ngày nay đồn Phú Hiệp có thể ở gần khu dân cư ấp Phú Lợi xã Phú Hữu, xem bản đồ quận An Phú, tỉnh Châu Đốc). Ông ta chỉ ra một khu vực công sự rộng lớn của đối phương, chỉ cách căn cứ Phú Hiệp 3 km trong lãnh thổ Campuchia. Bệnh viện cỡ 50 giường, đạn dược, thùng xăng dầu, nhà kho, trại lính đủ chứa một tiểu đoàn hơn 400 quân. Căn cứ bí mật Bưng Ven (mật cứ) được cung cấp vật liệu và hàng hóa chiến tranh từ miền Nam VN qua sông Mekong bằng tàu bè có đăng ký Quốc tế. Ở Phnom Penh, hàng hóa được đưa lên các tàu bè nhỏ hơn và trở ngược lại phía Nam tới Prek Chrey, nơi họ có thể đi theo sông/kinh Bắc nam và chuyển hàng hóa vào khu mật cứ. Ông ta giải thích: - Trong vòng 6 tháng qua, quân Giải phóng đã giành được một khu vực chạy dọc 1,5km, ngang 3km ở giữa đồn Phú Hiệp và biên giới. Một Tiểu đoàn bí mật của quân Giải phóng, khoảng 400 người, đóng tại đó để bảo vệ nguồn nước và đường vào căn cứ. Một Trung đội phòng không của quân miền Bắc VN cũng vừa gia nhập vào Tiểu đoàn này để chống lại máy bay trinh sát. - Sao lại để cho đối phương chiếm khu vực đó? Tôi hỏi. Ông ta giải thích rằng Thiếu tá Phồi đã khôn ngoan không tấn công vào đó, tránh tổn thất lực lượng trước bẫy mìn, súng bắn tỉa chừng nào mà ông ấy (TT Phồi) không được phép truy đuổi đối phương bên trong lãnh thổ Campuchia, không thì ông ấy sẽ tự hại mình. - Đó là nơi mà anh sẽ đến, Dan Nguy hiểm. Tôi muốn anh chỉ huy trại Dân Nam và Phân đội biên phòng A-424, tự do hành động. Tôi muốn anh mang cuộc chiến vào bên trong lãnh thổ Campuchia. Anh sẽ là người đầu tiên làm điều đó. Ông ta bắt đầu giải thích rằng CIA đang dàn xếp với Thủ tướng Kỳ (Nguyễn Cao Kỳ). - Những điều mà chúng ta nói ở đây, không bao giờ được phép ra khỏi căn phòng này. Ông ta cảnh báo. Tôi chỉ cung cấp vài thông tin như thế tới phân đội của tôi (phân đội A biên phòng) khi thi hành nhiệm vụ. Đây là một chiến dịch riêng rẽ và Ban chỉ huy "B" không được biết bất cứ chi tiết nào. Tôi có thể tùy ý xử lý chuyện đó khi nói tiếp xúc với Chỉ huy trưởng của Ban chỉ huy B. Giữ khoảng cách và lẩn tránh nếu cần. Ông ta nhấn mạnh: - Nếu anh đồng ý và một khi anh bước ra khỏi phòng, coi như chúng ta chưa từng gặp nhau. Rõ chứ? - Vâng thưa ngài, còn hỗ trợ hậu cần chiến đấu thì thế nào? Tôi hỏi. Ông ta cho tôi biết rằng tôi phải tự mình lo liệu. - Khi anh vượt qua biên giới, anh mất hết hỗ trợ. Không có trực thăng, pháo kích, quân tiếp viện. Kể cả hỗ trợ y tế. Không có gì hết. Ông ta mô tả về Thiếu ta Lê Văn Phồi, chỉ huy trưởng LLDB quân đội VNCH, một người kiên nghị và là một tín đồ Hòa Hảo (HH) lỗi lạc. Tôi đã đọc qua và nghe những người lính LLDB khác kể về giáo phái Phật giáo này. Họ chiến đấu gan dạ và tự trọng. Bằng nhiều giọng điệu khác nhau, Trung tá Tuttle kể cho tôi rằng: theo yêu cầu của Thiếu tá Phồi thì Thiếu tá Chuẩn, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ chỉ huy "C" LLDB, đã gặp ông ta và đề nghị chuyển công tác vị Đại úy người Mỹ, chỉ huy phân đội A ở An Phú. Tuttle thảo luận với Thiếu tá Arnn và luân chuyển người chỉ huy ra khỏi An Phú ngay ngày hôm sau. Ông ta bộc bạch: - Phân đội A-424 đã không có chỉ huy từ lúc đó. Ông ta cho tôi coi 1 bản báo cáo tháng rồi của phân đội A-424. Tôi thấy lực lượng Dân sự chiến đấu (LLDSCD) Hòa Hảo có 5 Đại đội (132 người/đội). Dưới sự chỉ huy của Quận trưởng là 1 Trung đội pháo kích 155mm (15 ly) của quân lực VNCH. Hai Đại đội Địa phương quân đóng gần trại chịu sự chỉ huy của Đại úy Tươi, kiêm chức Quận trưởng, quản lý và bảo vệ hơn 64.000 người dân An Phú, đa số theo đạo HH. 30km biên giới và cửa ngõ sông Hậu cần được bảo vệ. Nhiệm vụ Tối mật mới này là một bài kiểm tra thực tế cho tất cả chúng tôi. Cách chúng tôi làm, mức độ thành công của chúng tôi trong việc xoay chuyển dòng xoáy chiến tranh tại khu vực nhỏ bé của mình, sẽ tạo một sự chuyển biến cho toàn cõi Việt Nam. Trung tá Tuttle giải thích rằng Thiếu tá Phồi còn là cố vấn quân sự của Ban trị sự trung ương HH, đã thúc ép Chủ tịch ban trị sự Lương Trọng Tường đến gặp Trung tướng Đặng Văn Quang, chỉ huy Vùng 4 chiến thuật, để đảm bảo ông ấy có được quyền tấn công sang biên giới. Ông Tường đã gặp tướng Quang và yêu cầu đã được gửi đến Bộ trưởng Quốc phòng, người sau đó đã thỏa hiệp với Thủ tướng Kỳ và CIA. Kết quả là một nhiệm vụ độc lập, tối mật được triển khai tại An Phú. Đây là một phép thử. Thiếu tá Phồi còn đạt được yêu cầu cho phép một Đội trưởng người Mỹ làm Chỉ huy trưởng của trại, giúp họ có quyền tấn công vào nước Campuchia trung lập. An Phú sẽ là quận biên giới đầu tiên chối bỏ các An toàn khu của quân Giải phóng. - Tại sao phải giữ kín chuyện này? Tôi hỏi. - "Chính trị", ông ta nói, "các quan chức ở Nhà trắng đã xác nhận là không có căn cứ nào của đối phương ở Campuchia". Không cần nghi ngờ, chúng ta đều biết đó là sự dối trá. Thái tử Sihanouk phá vỡ quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ ngày 3-5-1965, thế nhưng bộ ngoại giao Hoa Kỳ không nôn nóng tạo ra bất cứ lý do nào để CHND Trung Hoa can thiệp vào cuộc xung đột. - "Thật lố lăng", tôi nói. Bọn họ đã can thiệp ngay từ những ngày đầu, cung cấp vũ khí cho quân Giải phóng và quân chính quy miền Bắc, số lượng vũ khí đó còn nhiều hơn cả số vũ khí mà chúng ta cung cấp cho phía VNCH. Ông Đại tá không cãi lại gì cả, chỉ nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi tôi có quyết định chưa. - Tôi muốn An Phú, thưa Đại tá. Tôi biết mình có thể tăng cường quan hệ chỉ huy với Thiếu tá Phồi. Người của ông ấy cần ông ấy lãnh đạo, người mà họ có thể tin cậy qua nhiều trận chiến. Tôi không muốn phá vỡ điều đó. Tôi hỏi nếu các hoạt động chiến đấu nằm trong lãnh thổ CPC, kể cả nổ súng gián tiếp, tôi có phải ghi chú hoặc báo cáo lại không? - "Bất cứ thứ gì liên quan tới nhiệm vụ bí mật này đều không được phép báo cáo hoặc ghi lại. Không Situation Reports (SITREPs) and Spot Intelligence Reports (SPOTREPs) hay bất cứ thứ gì thể hiện sự vi phạm biên giới và không phận quốc tế. Phải làm như không có gì xảy ra cả". Ông ta nhấn mạnh. "Anh còn muốn An Phú nữa không?" Tôi trả lời có, nhưng với một điều kiện. Giọng nói nghiêm túc cho thấy ông ta không thích đòi hỏi của cấp dưới. - Điều kiện gì, Đại úy? - Tôi muốn tự tay chọn người cho đội của mình, không thắc mắc. - Anh có nó. Tôi có thể giữ lại bất kỳ ai hoặc toàn bộ phân đội có sẵn ở An Phú. Ông Đại tá sẽ thay thế bất kỳ ai tôi bỏ ra. - Đủ công bằng chưa? Chúng tôi bắt tay thỏa thuận. - Hãy sẵn sàng bắt đầu vào sáng mai, Nguy hiểm, và chúc may mắn. Sau khi cân nhắc mọi thứ, Đại tá Tuttle bàn về chiến dịch độc lập, mối nguy kề cập, hoàn toàn không được chính quyền Mỹ hậu thuẫn, tôi quyết định thực hiện một kế hoạch bí mật để đảm bảo bảo vệ được sự thật về các mệnh lênh chỉ huy của mình, không bận tâm mình sống hay chết. Tôi phải tài liệu hóa các mệnh lệnh đó và gửi cho một người bạn mà tôi tin tưởng ở Mỹ để cất giữ. Nếu có chuyện xảy ra với tôi, người bạn đó sẽ nhờ một luật sư mở đống tài liệu này và cung cấp sự thật cho gia đình các đồng đội của tôi, Quốc hội và truyền thông. May thay, tôi tìm lại được đống tài liệu đó và sử dụng trong bản thảo của quyển sách này. Tôi gửi các bản copy cho các bạn đồng sự cũ để họ góp ý và bổ sung. Ngày Giáng sinh, tôi ăn no nê trong buổi ăn tối với gà quay truyền thống. Nhớ lại những buổi tối Giáng sinh trước, Kate làm "hư" tôi với các món ăn, nhất là món bánh hạnh nhận khoái khẩu. Ăn tối xong, tôi tắm nhanh, cầm bút viết thư cho cô ấy, nơi tôi đang ở, tôi học được những gì về tình hình trên vùng đất An Phú và dũng khí của binh lính HH. - "Đừng lo lắng em nhé!", tôi viết, "Vì anh ở chung với những người tốt". Tôi không ghi bất cứ điều gì làm cô ấy lo lắng mà chỉ bảy tỏ nỗi nhớ. Tôi vào mùng, nhắm mắt lại, dù suốt đêm trời nóng, tôi vẫn ngủ ngon. Tôi đã ở nơi mà mình muốn. Quay lại |