Trang chủ > Quê hương An Phú > Expendable Elite - Chương 1 (đoạn đầu)
Expendable Elite - Chương 1 (đoạn đầu)9-03-2015, 14:35. Người viết: hungtuan102 |
Chương 1: Mệnh Lệnh Tối Mật - Secret Orders Phúc Âm John 8:32, Chúa Giê-su phán: "Rồi các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ cởi trói cho các ngươi”. Trung tá Tuttle, Chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt Hòa Kỳ tại Quân Đoàn 4 (Vùng 4 Chiến Thuật) ở miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa), nói khẽ giọng: - Dan, nếu anh chỉ huy Phân đội biên phòng A-424 và chấp hành nhiệm vụ tối mật này, anh sẽ được toàn quyền quyết định. Ngay khi anh rời khỏi căn phòng này, coi như chúng ta chưa hế gặp nhau. Chúng tôi không thể và sẽ không hỗ trợ anh nếu như anh bị phát hiện làm những điều mà tôi sẽ yêu cầu anh làm ngay sau đây. Anh rõ chứ, Đại úy? Chúng tôi (Daniel Marvin) chợt bừng tỉnh, từ trong boongke (lô cốt) chỉ huy nhìn sang phía bên kia biên giới, đối diện với vùng đất thiên đường Campuchia của đối phương (Quân Giải Phóng, GP). Khoảng 2.400 người lính Giải Phóng bên kia biên giới sẵn sàng tấn công Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu (dân vệ, DSCD) của chúng tôi. Họ, Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu, là những người làm nhiệm vụ tiền tiêu và mai phục dọc theo toàn tuyến biên giới. ![]() Một boongke (bunker) có chứa súng máy bên trong. Ngày 18, tháng 06, năm 1966. Mặc dù thua kém cả về số lượng quân lính lẫn vũ khí so với đối phương (GP), nhưng dựa trên những chiến thắng trước đây, chúng tôi tự tin có thể phòng thủ hơn 30KM biên giới và bảo đảm một khu vực an toàn cho hơn 64.000 người dân. Là như thế, nếu như chỉ có đối phương (Quân GP) là mối bận tâm của chúng tôi. Thiếu tá Phồi (nguyên văn là Thiếu tá Lê, gọi theo họ thay vì theo tên, cách của người Âu Mỹ) và tôi, cố kìm nén cảm xúc, đứng cạnh hai bên khẩu súng máy Caliber 50 ly. Nòng súng cùng chĩa hướng từ trại chỉ huy đặc nhiệm của chúng tôi sang phía bên kia biên giới Campuchia. ![]() Súng máy Caliber 50 ly. Hôm nay là một ngày vô cùng đặc biệt, cứ như nó được báo hiệu trước, và sẽ ghi dấu mãi mãi trong quãng đời binh nghiệp của chúng tôi. Thiếu tá (TT) Phồi, đồng đội người Việt của tôi, là một chỉ huy can đảm và trung thực, một chiến binh kì cựu với 18 năm trên chiến trường. Tôi đỡ ông ấy, cứ như đang đỡ nam diễn viên cao 1m65 mà tôi yêu thích, John Wayne (ngôi sao phim cao bồi). "Đây là lần đầu tiên", ông ấy nói với tôi, "tôi thấy lo sợ vì những chuyện có thể xảy ra tại An Phú". Ông ấy không hề kiêu ngạo, ngược lại không ngại ngần chia sẻ sự thật với tôi, như thể ông ấy là anh trai của tôi vậy. Chúng tôi đã đạt được thân tình. TT Phồi là một trong số ít các chỉ huy luôn luôn kiên cường, không bao giờ lay chuyển lòng tự trọng hay trốn tránh nguy hiểm. Ông ấy luôn đi đầu khi tham chiến, và được biết đến như người bảo vệ an nguy cho những thường dân bất kể khi nào có thể. Trong thời điểm ngắn ngủi này, dễ hiểu khi ông ấy cảm thấy quẫn trí khi biết rằng mình sẽ không bao giờ có thể bảo vệ người dân An Phú nữa. Xin chia sẻ lại một chút tâm sự. Chỉ mới cách đây 2 ngày, tôi đã đuổi cổ Đặc vụ CIA Walter McKem ra khỏi trại của tôi. Hắn ta tức tối bỏ đi và đay nghiến hét lớn: - Mày không thể chống lại Chế Độ, Đại úy, bởi vì mày không thể thắng nổi đâu. Ngày 20 tháng 6 năm 1966, tôi và TT Phồi đang cùng nhau suy nghĩ về tình hình và các biện pháp đối phó. Vừa ngay trước đó, chúng tôi nhận được tin từ Đặc vụ ở Tỉnh lỵ Châu Đốc gửi tới, một Trung Đoàn khoảng 1.500 quân kèm trang bị hạng nặng của quân lực VNCH cùng các cố vấn Hoa Kỳ đang cấp tốc tập hợp trước cổng Ban chỉ huy B (ở Châu Đốc) để chuẩn bị tấn công lên trại của chúng tôi (phân đội A). Tàu đổ bộ có thể chở họ đến với nhiều vũ khí, chạy ngược dòng sông Hậu để tấn công trại của chúng tôi. Xuồng bè tắc ngẽn trên sông do bị chặn bởi tàu của họ. TT Phồi quay qua tôi, rướn người bắt tay. Cả hai biết rằng thời khắc còn được đứng cạnh nhau sẽ rất ngắn ngủi. Tôi chỉ có thể cầu mong phép màu xảy ra ngay lúc này. TT Phồi nhìn thẳng vào mắt tôi, làm như những khi ông ấy thực sự thấy nghiêm trọng. - Tôi hi vọng Mật phái viên của chúng ta ở Hòa Hảo đã tới được chỗ Tướng Quang đúng lúc để ngăn chặn cuộc thảm sát này. Nước mắt rơi ra trên đôi mắt ông ấy. Tôi chưa từng thấy ông ấy khóc, nhưng tôi biết ông ấy yêu thương người của mình. Ông ấy thực sự lo lắng rằng họ sẽ bị hành hạ, thậm chí bị giết bởi bàn tay của quân lính VNCH. - Và tôi mong là Tướng Quang sẽ đứng về phe của chúng ta. Tôi đáp lại, mặc dù tôi chưa hề biết vị Tướng này và lòng dạ ông ấy ra sao. Không như TT Phồi, với tư cách là cố vấn quân sự của Ban trị sự trung ương Hòa Hảo, ông ấy đã cộng tác với Tướng Quang trong quá khứ. TT Phồi liếc nhìn sang phía tôi, khẽ mỉm cười: - Tôi không nghi ngờ chuyện đó, Đại Úy, không một chút nào. Tôi sẽ không bao giờ tin nổi điều này khi tôi hô vang lời thể bảo vệ Tổ Quốc, thế nhưng giờ đây chính quyền Hoa Kỳ lại tung toàn lực và hạ lệnh tiêu diệt đội của tôi và những người mà chúng tôi đã giúp đỡ. Đây là một bằng chứng gây sốc, một sự nguy hiểm ẩn dấu trong các Chiến dịch bí mật. Mối đe dọa thảm khốc đang xảy đến, nó sẽ nhấn chìm chúng tôi vào chỗ chết. Chỉ bởi vì tôi bảo vệ những lý lẽ mà tôi cho là chính nghĩa và chống lại những mệnh lệnh táng tận lương tâm của CIA (Cơ quan tình báo Trung Ương Hoa Kỳ). Cuối cùng, cái ngày tưởng như không bao giờ xảy ra ấy, nó đang đang thực sự sống lại qua những trang sách mà tôi sẽ thổ lộ sau đây, những sự thật mà tôi, khi ấy đang là một vị Đại Úy lính mũ nồi xanh 32 tuổi, tham chiến tại Việt Nam. ![]() Daniel Marvin và ông Lê Văn Phồi Bí mật được giữ kín nghiêm ngặt suốt nhiều tháng trời khi tham gia huấn luyện về chiến thuật du kích và chống du kích. Sau khi vượt qua bài thử thách cuối và giành lấy quyền đội lên đầu chiếc mũ nồi xanh, chúng tôi nói rất ít về những thứ mà chúng tôi đã học được với gia đình và bạn bè. Bí mật được che dấu kỹ với cả gia đình, những người bạn ngoài ngành, và cả vợ con. Khi Kate và tôi cùng nói lời đính ước vào tháng 10 năm 1956, tôi 23 tuổi, đang là trung sĩ không quân thuộc sư đoàn 82 Không quân ở Fort Bragg, North Carolina. Chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên khoảng 7 năm trước đó, tại một lớp dạy khiêu vũ ở Enfield Center, New York. Lúc ấy tôi 16 tuổi, là con riêng của một người nông dân, ba dượng tôi có mua 1 con ngựa của ba cô ấy, còn cô ấy lúc đó 13 tuổi. Ngày Tổng thống Kenedy bị ám sát, chúng tôi đang đóng quân ở Yuma Proving Grounds, bang Arizona. Tôi lập tức tình nguyện gia nhập Lực lượng đặc biệt, khát khao được giành lấy và tự tay đội lên chiếc mũ nồi xanh. Khát khao lớn nhất của tôi là trở thành 1 người lính đặc nhiệm, những người được khen ngời là ưu tú nhất trong trong quân đội. Làm vợ của một người lính đặc nhiệm, chắc Kate phải cảm thấy đau đớn lắm mỗi khi nói chào tạm biệt khi tôi đi làm nhiệm vụ. Không được biết tôi sẽ đi đâu, bao lâu và nguy hiểm ra sao. Nhiệm vụ buộc tôi chỉ có thể nói rất sơ lược với cô ây. Nếu viết thư, tôi chỉ nói rất ít để hạn chế bất cứ chi tiết nào liên quan tới nhiệm vú bí mật. Kate đã biết được hầu hết những gì tôi đã làm trong quãng đời binh nghiệp của mình, tôi cũng cho cô ấy biết về những nhiệm vụ bí mật của mình. Lúc đó đã là 20 năm sau khi tôi giành được chiếc mũ nồi xanh. Tôi không lường trước phản ứng của cô ấy khi biết sự thật, chỉ nghĩ rằng cô ấy sẽ vui khi biết được những việc mà một người lính đặc nhiệm thực hiện trong các cuộc Chiến tranh không theo quy ước (Chiến tranh ngoại lệ). Sau khi thấy được mặt trái của chiến tranh du kích, nhiệm vụ phá hoại, phương pháp thẩm vấn và các chiến dịch sai trái hay thậm chí chống lại Luật pháp Quốc tế về chiến tranh, như ám sát và khủng bố, Kate cực kỳ choáng váng. Một ngày mùa Xuân năm 1984, cô ấy buột miệng nói: - Anh không phải là người mà em đã lấy làm chồng. Chưa bào giờ cô ấy nói đúng hơn vậy. Đời là thế, dù làm người khác thấy khó chịu, tôi lại thấy máu mình sôi sục. Ngày 22 tháng 11 năm 1965, 64 người lính mũ nồi xanh chúng tôi từ máy bay hạ cánh xuống miền Nam Việt Nam từ độ cao 3km, lo lắng để đáp xuống mặt đất và tham gia vào hoạt động quân sự mà chúng tôi được yêu cầu. Chúng tôi tiến vào không phận sân bay Tân Sơn Nhất trên chiếc máy bay sang trọng của Southern Air Transport, liếc nhìn qua cửa sổ, chúng tôi thấy những việt sáng của súng pháo nổ ở phía xa, quá xa để làm hỏng cuộc hạ cánh hoàn hảo nhưng có phần vội vã của chúng tôi. Máy bay dừng, chúng tôi cùng nhau lấy đồ đạc rời khỏ máy bay. Và như ngay lập tức, được chào đón bằng cái nóng gần 40 độ C và ẩm ướt. Một hạ sĩ thuốc đơn vị số 5 Lực Lượng Đặc Biệt (5th Special Forces Group, 1st Special Forces Regiment: Trung đoàn LLDB Hoa Kỳ) gặp chúng tôi và chỉ về hướng chiếc máy báy Caribou của Không quân đang đợi, cách khoảng 100m. Hai cánh quạt máy bay vẫn quay, nhân viên điều hành bay nhắc chúng tôi chạy lên thang máy bay để lên boong và xếp hành lý, thắt dây an toàn trên ghế. Trong vài phút, chúng tôi lại trở lại không trung, hướng về phía bộ chỉ huy lực lượng ở Nha Trang, cách Saigon 350km về hướng Đông Bắc, trên bờ biển Đông. ![]() Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ tại Nha Trang Hai ngày trước, tôi tạm biệt Kate và 3 cô con gái ở sân bay ngoại ô Ithaca, New York. Chúng tôi tạm biệt trong cái lạnh âm 3 độ C, gió lạnh buốt và tuyết rơi dày vài inches. Tôi cố vẫy tay chào qua cửa sổ chỗ tôi đang ngồi, nhưng tuyết rơi xoáy tít khiến tôi không tài nào thấy được chỗ họ đang đứng. Tôi hi vọng Kate có thể lái chiếc xe mới mua, Volkswagen Beetle, về nhà bình an. Trong thâm tâm tôi biết cô ấy có thể vượt qua những khó khăn khi chúng tôi xa nhau. Ithaca là quê của cô ấy, cũng là nơi chúng tôi gặp gỡ và kết hôn. Nếu có chuyện gì xảy ra khi tôi vắng nhà, tôi tin gia đình cô ấy sống ở gần đó sẽ giúp đỡ cô ấy các con. Chuyến bay từ Ithaca đến sân bay thành phố Fayetteville, North Carolina yên ổn, và chuyến taxi đến căn cứ không quân Pope, liền kề Fort Bragg, cũng nhanh chóng và thoải mái. Nhân viên căn cứ Pope cho tôi vào và dẫn lên chiếc máy bay lớn của Southern Air Transport, động cơ của nó đang chạy và 63 binh lính Lực Lượng Đặc Biệt đang ngồi sẵn. CIA tham gia nhiêu hoạt động bí mật trên toàn cầu, các binh sĩ LLDB thường xuyên được đưa đến những địa điểm khác nhau, trên các chuyến bay và máy bay chuyên biệt. Đây đúng là một chuyến bay hạng sang, tiếp viên hàng không xinh đẹp, đồ uống miễn phí, thức ăn ngon, cứ như đang trong các bộ phim của John Wayne. Chúng tôi đáp xuống căn cứ không quân Nha Trang, đậu trên đường láng nhựa và xuống máy bay trong cảnh tượng hối hả. Ngay lập tức thấy được, kể cả người vô tình nhìn qua, hỗ trợ hậu cần cho tất cả trại LLDB ở miền Nam VN là một công việc khắt khe và hao tổn. Chúng tôi nhìn thấy hội trường khi ngang qua lúc vào doanh trại, không như tưởng tượng nhưng cũng đủ để ngủ gục. 7 giờ sáng hôm sau, một bữa ăn sáng vui vẻ để chào đón chúng tôi. 3 chỉ huy khác và tôi báo cáo với Phòng chỉ dẫn, và tham dự một loạt các buổi họp định hướng do Chỉ huy trưởng, Đại tá William McKean và người của ông ấy thực hiện. Chúng tôi được chỉ dẫn về công tác hậu cần, bao gồm hỗ trợ hàng không cấp tốc, các kênh liên lạc khi thiếu thốn đạn dược, hỗ trợ trên chiến trường qua radio tới Trung tâm hỗ trợ hậu cần. Các chuyên viên kỹ thuật hàng không, do Trung úy Peter Teasdale chỉ huy, thông qua mật mã của LLDB sẽ gửi đạn dược tới khu vực của các trại có yêu cầu, trong vòng vài tiếng đồng. Trung úy Teasdale từng là trợ lý của tôi khi còn ở Fort Bragg, quen thuộc với hệ thống mật mã. Mật mã thường bao gồm các chi tiết như vũ khí, đạn, thuốc, phuong tiện liên lạc, các loại kích nổ, xăng dầu, thực phẩm, và các loại quân nhu khác cho hoạt động. Đóng gói các thứ vào một chỗ, gắn dù vào. Mỗi gói hàng có 3 mã số, mã Morse hoặc phiếu 1 lần đọc, làm đơn giản để nhanh chóng chuyển đúng hàng đến đúng nơi và đúng lúc. Chỉ huy tình báo (S-2) là người tiếp theo lên phát biểu. Bắt đầu bằng việc tóm tắt các hoạt động chính của các trại LLDB tại miền Nam VN trong 24 giờ tới, ông ta cho chúng tôi thấy tổng thể về các hoạt động tình báo, một bảng tóm tắt về tình hình và tiên đoán các hoạt động sắp tới của đối phương. Ông ta khiến chúng tôi nhận thấy sâu sắc rằng phải cần có một mạng lưới tình báo tốt, bằng cách sử dụng các tài sản tại chỗ của từng trại LLDB. Ông ta cảnh báo chúng tôi về việc mua các tin tình báo, bởi theo các báo cáo, các điệp viên bán tin tức thường đưa tin vô dụng, lắm lúc nguy hiểm, thổi phòng về vị trí, sức mạnh, vũ khí của đối phương. S-3 tiếp nối. Cầm một cây gậy gỗ bịt kim loại ở đầu, ông ta chỉ cho chúng tôi thấy vị trí các trại LLDB ở miền Nam VN, trên tấm bản đồ kéo dài từ trần xuống tới sàn nhà. Chữ phân loại bảo vệ "MẬT" được đóng dấu ở trên và dưới cùng, to, đậm, màu đỏ. Ông ta chỉ ra 78 trại Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu (Civilian Irregular Defense Group - CIDG - LLDSCD), bắt đầu ở phía Bắc từ Khe Sanh, kéo dài xuống phía Nam. Nhiều trại nằm trên hoặc kế bên biên giới miền Nam VN với Lào và Campuchia, dài xuống phía Nam là một tiền đồn có từ thời Pháp ở Hà Tiên, ngăn cách với Campuchia bằng 1 vịnh nhỏ trong vịnh Thái Lan. Ông ta cho chúng tôi biết có 1.592 lính đặc nhiệm Mỹ tại VN, khoảng 28.200 lính thuộc lực lượng CIDG. Ngoài ra còn có khoảng 2.300 quân không chính quy trong đơn vị Mike Force. LL CIDG được huấn luyện, trang bị và chỉ huy bởi phân đội "A" biên phòng của LLDB Việt Nam (VNCH). Nhưng họ được trả lương, cấp chỗ ở, thức ăn, hỗ trợ và cố vấn bởi phân đội "A" của LLDB Hoa Kỳ. Hầu hết lính CIDG, ông ta nói, được tuyển mộ tại chỗ để bảo vệ chính nhà cửa của họ, chống lại quân Giải Phóng và quân chính quy của miền Bắc VN. Chương trình bao gồm: người dân tộc Khmer, tín đồ hai giáo phái Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài, dân tộc Hoa và các dân tộc ở Tây Nguyên. Ông ấy bỏ thời gian để cho chúng tôi thấy sự độc nhất vô nhị của đơn vị MIKE Force (lực lượng xung kích). Họ được trang bị như một lực lượng phản ứng cơ động, luôn sẵn sàng ứng cứu các trại LLDB khi có nguy biến. Tất cả các đơn vị MIKE Force đều được chỉ huy bởi người thuộc LLDB Hoa Kỳ. Thêm vào đó, tổng cộng hơn 28.800 lính bán quân sự thuộc Địa phương quân, Nghĩa quân hoạt động tại các khu vực, dựa trên sự cố vấn của nhân viên LLDB Mỹ. Ông ta nhấn mạnh điểm quan trọng của báo cáo: The Monthly Operational Summary (MOPSUM), Situation Reports (SITREPs) and Spot Intelligence Reports (SPOTREPs). Mỗi báo cáo đều được xem xét tại Tổng hành dinh của lực lượng để các nhân viên nắm được tình hình trên chiến trường. Báo cáo đúng lúc và chính xác là công việc cần thiết của công tác hậu cần tại các chiến trường Chiến tranh Không quy ước suốt dọc miền Nam VN. Xác định chính xác hoạt động của đối phương tại mỗi khu vực của từng đội sẽ giúp hậu chần thả hàng hỗ trợ xuống đúng chỗ nhất trong trường hợp cấp bách. Ông ta ngừng lại uống 1 ngụm nước trong cái ly thủy tinh đặt trên bục diễn giả, đề nghị chúng tôi giữ câu hỏi cho tới cuối buổi họp và sẽ trả lời mọi câu hỏi còn lại phía sau phòng họp. Sĩ quan Dân sự vụ S-5 (Civil Affairs Officer), chịu trách nhiệm về các hoạt động dân sự và chiến dịch tâm lý chiến, lên báo cáo tiếp. Ông ta làm chúng tôi thấy mạnh mẽ, thách thức, và cả kích động tinh thần khi đi ngang phòng làm việc của ông ấy, minh chứng cho tầm quan trọng khi chiến thắng được trái tim mà khối óc của con người. Ông ấy tạo ra sức ảnh hưởng bằng sự hăng hái và giúp đỡ chúng tôi hiểu rằng tại sao phải dành ít nhất một nửa công sức của cả đội cho các hoạt động dân sự và tâm lý chiến, nếu chúng tôi muốn thành công. - "Trong nhiều năm", ông ta nói, "chính quyền Saigon đã phớt lờ nhu cầu và nguyện vọng của người dân tộc Tây Nguyên, tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài và dân tộc Khmer. Hậu quả là, không có 1 chút lòng trung thành nào trong các nhóm này với chính quyền Saigon". - "Tất cả bọn họ", ông ta giải thích, "là cư dân chính ở vùng nông thôn, nhưng thiếu lòng yêu nước, dễ bị tuyên truyền Chủ nghĩa Cộng Sản bởi quân Giải Phóng". Một trong những thử thách chính của chúng tôi là giảm thiểu và dần dần bỏ qua một bên sự thờ ơ với chính quyền, một số trường hợp, có hành động quân sự với các nhóm này. Ông ta cũng giải thích tại sao các Chương trình Dân sự sẽ được phát triển bởi khi phân đội A của chúng tôi hợp tác với các đồng sự người Việt trong LLDB, xã trưởng, quan chức quận ở các địa phương. Đầu tiên họ xác định nhu cầu thực tế của người dân, đánh giá năng lực của chính quyền địa phương, và LLDB Hoa Kỳ sẽ đáp ứng những nhu cầu được cho là cấp thiết nhất. Chương trình bao gồm xây dựng cầu, trường học, bến tàu, làm đường xá và tuần tra y tế. Dễ thấy rằng quân y LLDB là những ngưới có giá trị nhất trong chiến dịch của phân đội A, bởi họ hằng ngày đều đi ra khỏi thị trấn, tới các ấp nhỏ nhất, chữa trị bệnh, vết thương cho người dân địa phương, đặc biệt là trẻ em và người già. Tất cả những việc mà đội làm cho người dân là để phát triển và nuôi dưỡng lòng trung thành, để xem họ như những người bạn của chúng tôi trong cuộc đấu tranh chống lại sự nổi dậy của chủ nghĩa CS. - "Có lòng tin, thì lòng trung thành đến theo", ông ta nhấn mạnh, "một trách nhiệm quan trong cho mỗi thành viên phân đội A, đó là, cố gắng chuyển hướng lòng trung thành đó vào chính quyền Saigon. Không dễ chút nào", ông ta kết luận, "nhưng các anh phải ưu hiên điều đó lên hàng đầu. Tất cả chúng ta rồi sẽ trở về nhà, và thật tệ, nếu những việc chúng ta đã làm biến thành hư vô". Kế đó ông ta giới thiệu sĩ quan phụ tá và bước xuống. Quay lại |